Gừng còn gọi là khương, sinh khương, can khương.
Tên khoa học Zingiber officinale Rosc, thuộc họ Gừng (Zingiberraceae).
Khương (Rhizoma Zingiberis) là thân rễ của cây gừng tươi hoặc khô. Tuỳ theo tươi hay khô, vị thuốc mang tên khác nhau.
Sinh khương là củ (thân rễ) tươi.
Can khương là thân rễ phơi khô.
1/ Mô tả cây
Gừng là một loại cây nhỏ, sống lâu năm, cao 0,6-1m. Thân rễ mẫm lên thành củ, lâu dần thành xơ. Lá mọc so le, không cuống, có bẹ, hình mác dài 15 đến 20cm, rộng chừng 2cm, mặt bóng nhắn; gân giữa hơi trắng nhạt, và có mùi thơm.
Trục hoa xuất phát từ gốc, dài tới 20cm, hoa tự thành bông mọc sít nhau, hoa dài 5cm, rộng 2-3cm; lá bắc hình trứng, dài 2,5cm, mép lưng màu vàng; đài hoa dài chừng 1cm, có 3 răng ngắn; 3 cánh hoa dài chừng 2cm, màu vàng xanh, mép cánh hoa màu tím; nhị cũng tím. Loài gừng trồng ít ra hoa.
2/ Phân bố, thu hái và chế biến
Gừng được trồng ở khắp nơi trong nước ta để lấy củ ăn và làm thuốc, dùng trong nước và xuất khẩu.
Muốn có gừng tươi (sinh khương) thường đào củ vào mùa hạ và thu. Cắt bỏ lá và rễ con rửa sạch lá là được. Muốn giữ gừng tươi lâu phải đặt vào chậy phủ kín đầu lên. Khi dùng đào lên rửa sạch, mùa đông đào lấy những thân rễ già, cắt bỏ lá và rễ con, rửa sạch phơi khô sẽ được can khương.
Ngoài 2 loại gừng trên dùng trong đông y, trên thị trường quốc tế người ta còn tiêu thụ 2 loại gừng gọi là gừng xám và gừng trắng. Gừng xám là loại củ còn để nguyên vỏ hay cạo vỏ ở những chỗ phẳng, rồi phơi khô. Gừng trắng là loại gừng đã được cạo lớp vỏ ngoài có chứa nhiều ngựa dầu (oleoresine), rồi mới phơi khô. Thường người ta còn ngâm gừng già vào trong nước một ngày rồi mới lấy ra cạo vỏ. Có khi người ta còn làm trắng bằng canxi hypoclorit, hay ngâm nước vôi hoặc xông hơi diêm sinh (SO2).
3/ Thành phần hoá học
Trong gừng có từ 2-3% tinh dầu. Ngoài ra còn có chất nhựa dầu (5%), chất béo (3,7%), tinh bột và các chất cay như zingeron, zingerola và sogaola.
Tinh dầu gừng có tỉ trọng 0,878 tả tuyền
4/ Công dụng và liều dùng
Theo tài liệu cổ: sinh khương vị cay, tính hơi ôn, vào ba kinh phế, tỳ và vị. Có tác dụng phát biểu tán hàn, ôn trung, làm hết nôn, tiêu đờm, hành thuỷ giải độc. Dùng chữa ngoại cảm, biểu chứng, bụng đầy trướng, nôn mửa, giải độc bán hạ, nam tính; cua cá, đờm ẩm sinh ho.
Can khương vị cay, tính ôn, bào khương (can khương bào chế rồi) vị cay đắng tính đại nhiệt. Vào sáu kinh tâm, phế, tỳ, vị, thận và đại tràng. Có tác dụng ôn trung tán hàn, hồi dương thông mạch, dùng chữa thổ tả, bụng đau, chân tay lạnh, mạch nhỏ, hàn ẩm xuyển ho, phong hàn thấp tỳ.
Trong nhân dân, gừng là một vị thuốc giúp sự tiêu hoá, dùng trong những trường hợp kém ăn, ăn uống không tiêu, nôn mửa đi ỉa, cảm mạo, phong hàn làm thuốc ra mồ hôi, chữa ho mất tiếng.
Gừng tươi (sinh khương) dùng với liều 3-6g dưới dạng thuốc sắc hay thuốc pha hoặc rượu gừng tươi (mỗi ngày 2-5ml). Gừng khô (can khương) dùng khi lạnh mà đau bụng, đi ỉa lỏng, mệt lả, nôn mửa. Liều dùng cũng như gừng tươi.
Ngoài công dụng làm thuốc, gừng còn tiêu thụ mạnh trên thị trường trong nước và thế giới vì là một thực phẩm, nguyên liệu chế rượu bia (Anh và Mỹ lại thích loại bia này), mứt gừng,…
5/ Đơn thuốc có gừng
Chữa nhức đầu, lạnh bụng, nôn oẹ, có đờm
Can khương 10g, trích cam thảo 4g, nước 300ml, sắc còn 100ml, chia nhiều lần uống trong ngày. Thấy đỡ thì bớt uống đi.
Đi tả ra nước
can khương sấy khô tán nhỏ; dùng nước cơm chiêu thuốc, mỗi lần uống 2-4g.
Đi lỵ ra máu
Can khương thiêu tồn tính. Ngày uống nhiều lần, mỗi lần 2-4g, chiêu bằng nước cơm hay nước cháo.
Cảm cúm, nhức đầu, ho, thân thể đau mỏi
Gừng sống giã nhỏ, bọc vào mớ tóc rối, tẩm rượu xào nóng đánh khắp người và vào chỗ đau mỏi.
Chửa nôn mửa
Gừng sống chấm từng ít một cho đến khi hết nôn. Trong đông y, người ta cho rằng những trong ngoài đều nhiệt, vì nhiệt mà đau bụng, vì nhiệt mà thổ huyết thì không dùng được.
Trích “Những cây thuốc và vị thuốc việt nam – Đỗ Tất Lợi”