Tại sao gọi là rau tía tô?
Tía tô, tiếng Trung Hoa gọi là “Tử Tô”, chữ “Tử” theo tiếng Việt Nam ta có nghĩa là màu “Tía” cho nên ta gọi là “Tía Tô”. Sách “Bản Thảo Cương Mục” gọi Tía Tô là “Xích Tô”, chữ “xích” có nghĩa là đỏ và cho rằng: lá dùng ăn sống và nấu canh, sát trừ tất cả các chất độc cá trạnh. Lại có loại Tía tô gọi là “Bạch tô”, lá hai bề đều trắng, đó là rau húng. Sách “Bản Thảo Cứu Hoang” chép, lá Tía Tô luộc ăn hay nấu uống cũng được, hạt đem nghiền nhỏ nấu ăn, hoặc nấu cháo ăn đều tốt.
Theo sách “Trồng, Hái và Dùng Cây thuốc – Tập I” của Lương Y Lê Trần Đức, Lá Tía Tô vị cay, tính ấm, vào Phế Tâm, làm ra mồ hôi, hạ khí, tiêu đàm. Chữa cảm cúm không có mồ hôi và ho tức ngực, nôn đây.
Nhiều tác dụng chữa bệnh của rau tía tô
1/ Trị Chứng “Cảm Cúm Bí Mô Hôi, Ho Tức Ngực”
Dùng 15- 20 gr lá Tía Tô tươi, giã nát, chế nước sôi, quậy đều, gạn lấy nước trong uống. Hoặc lấy 10 lá Tía Tô thái nhỏ sợi, trộn với cháo nóng ăn, rồi nằm đắp chăn cho ra mồ hôi là khỏi. (Lương Y Lê Trần Đức)
2/ Trị Chứng “Sưng Vú”
Phụ nữ bị sưng đỏ, đau nhức Ở nhũ hoa, dùng 1 lượng lá Tía Tô đủ dùng, sắc hơi đặc lấy nước uống, lấy bã đắp vào chỗ sưng. Rất hiệu nghiệm. (Cổ Phương)
3/ Trị Chứng “Thương Hàn Ho Suyễn”
Lấy 1 nắm lá tía tô, nấu nước, uống dần là dứt cơn suyễn. (Thiên Kim Phương)
4/ Trị Chứng “Thương Hàn Về Mùa Đông, Bí Mồ Hôi”
Mùa đông khí thời giá rét, người cơ thể suy yếu gặp thời tiết khắc nghiệt ấy, dễ cảm nhiễm, thành chứng thương hàn, bí mô hôi. Để chữa chứng này, dùng lá tía tô (một lượng lớn), nấu sôi, đổ vào một cái chậu, trên chậu úp một rá hoặc rổ, đặt hai bàn chân lên rồi trùm chăn lên xông, khi nước bớt nóng thì ngâm chân vào. Công hiệu vô cùng. (Kinh Nghiệm Dân Gian)
5/ Trị Chứng “Nấc Liên Hồi Khi Mới Khỏi Bệnh”
Sau khi mới khỏi bệnh, bỗng phát chứng nấc liên hồi suốt ngày đêm, tiếng nấc to đến hàng xóm cũng nghe. Dùng một lạng (10 đồng cân) hạt tía tô, sao qua, tán nhỏ, hòa với nước, lọc bỏ bã, lấy nước ấy bỏ gạo tẻ vào nấu thành cháo, ăn thường xuyên thì khỏi. (Nam Dược Thần Hiệu)
6/ Trị chứng “Thổ Tả Nghịch Lý”
Thông thường, mắc chứng thổ tả thì trên thổ, dưới tả dữ dội, nhưng cũng có khi mắc chứng thổ tả mà không thổ, không tả, mồ hôi toát ra, thân thể lạnh ngắt sắp chết. Gặp chứng này, lấy 1 nắm lá tía tô tươi, giã vắt lấy nước cho người bệnh uống, nếu là lá khô thì sắc lấy nước cho uống nóng. Rất hay. (Nam Dược Thần Hiệu)
7/ Trị Chứng “Mộng Tinh”
Nằm chiêm bao thấy cùng phái nữ chung chạ, tinh ra ướt quần, đó là do tâm và thận suy, mạch tâm và thận yếu mà sinh ra, phải gấp chữa trị, để lâu có hại. Dùng 100gr hạt tía tô, tán nhỏ, mỗi lần uống 4 gr với rượu, ngày uống 2 lần thì khỏi. (Ngoại Đài Bí Yếu)
8/ Trị Chứng “Bí Tiểu Tiện Lâu Ngày”
Do thận và bàng quang bị nhiệt khiến tiểu tiện không thông, bụng dưới đầy trướng, quá nặng thì thủy khí ngược lên làm cho tim bị bức bách đầy trướng, có khi dẫn đến Cái chết, Gặp phải chứng này, dùng một lượng, lớn Tía Tô, cho vào nôi to, đổ nước vào nấu sôi lên thì bắc xuống úp 1 cái rổ lớn lên miệng nồi, cho người bệnh ngồi lên trên xông, hễ nguội thì đổ thêm nước sôi vào. Xông một hồi lâu, dùng muối hột rang nóng, bọc vải chườm và những chỗ trương cứng thì đái được ngay, đầy trướng cũng xẹp. (Nam Dược Thần Hiệu)
9/ Trị Chứng “Người Lớn Tuổi Hay Thở Suyễn”
Người lớn tuổi, phổi suy yếu hay thổ suyễn, đuối hơi. Dùng 1 lạng Hạt tía tô, sao qua, tán bột, đổ 2 bát nước vào hòa đều, lọc bổ bã, cho 3 vốc gạo vào nước đó nấu cháo ăn vào lúc đói. Rất hay. (Nam Dược Thần Hiệu)
10/ Trị Chứng “Trẻ Em Ho Nặng Thở Gấp”
Trẻ em bị ho nặng, mặt tím tái, hơi thở thật gấp. Mau lấy 20 gr Hạt tía tô tán thành bột, hòa với nước đun sôi để còn âm ấm, lọc bỏ phần bã cho uống, hoặc hòa bột này với nước cháo hay nước cơm cho uống sẽ khỏi. (Cổ Phương)
11/ Trị Chứng “Trẻ Em Bị Lở Cu, Nước Mủ Rỉ Ra Mãi”
Nếu có con, em mắc nhằm chứng này, phải chữa trị ngay, chớ xem thường mà có hại lớn. Mau lấy 1 nắm lá tía tô màu sậm, ngâm nước, rửa kỹ nghiền nát nhuyễn rịt vào thì khỏi. (Cổ Phương)
12/ Trị Chứng “Bụng Trướng Đau”
Bụng bỗng đầy trướng quặn đau nhưng không ói mửa, đi tiêu chảy. Lấy 1 nắm lá tía tô tươi, giã nát vắt lấy 1 bát nưóc, hòa thêm chút muối cho uống xong phát ói mửa, tiêu chảy đừng lo, nhờ thế bụng hết trướng đau. (Thuốc Hay Tay Đảm)
13/ Chữa “Ăn Cua Trúng Độc”
Lấy 1 nắm lớn lá tía tô, sắc đặc, uống nóng là khỏi. (Ứng Nghiệm Lương Phương)
14/ Chữa “ Dị Ứng Da Do Ăn Cua, Sò… Đồ Biển”
Do ăn cua, sò…. món tanh, đồ biển, da bị dị ứng mẩn đỏ, ngứa gãi. Dùng 1 nắm lá tía tô giã vắt lấy nước uống, còn bã thì xát vào chỗ dị ứng, tránh ra gió, dầm nước thì khỏi. Cách này cũng có thể dùng để chữa “dị ứng do tiếp xúc với nước lạnh”. (Kinh Nghiệm Dân Gian)
15/ Chữa “Vết Thương Chảy Máu Nhiều”
Bị thương máu chảy nhiều khó cầm, mau lấy lá tía tô non, nhai nhuyễn đắp kín vết thương, máu sẽ ngưng chảy. Tiếp theo dùng lá tía tô khô, hay lá tía tô sao cho khô giòn, tán thành bột mịn, rắc lên vết thương, máu sẽ ngưng hẳn, vết thương sẽ không làm mủ và để lại vết sẹo to khi lành. (Kinh Nghiệm Dân Gian)
16/ Chữa “Động Thai, Thai Trồi Lên”
Bị động thai, thai nhi trồi lên, mẹ nôn ọe dữ dội. Dùng 12 gr cành tía tô, 12 gr sắn dây sắc chung lấy nước uống thì khỏi. (Lương Y Lê Trần Đức)
17/ Chữa “Ngã Đau Bị Thương”
Ngã đau, bị rách da thịt, vết thương lở miệng. Dùng lá tía tô giã nát đắp vào, vết thương tự kéo miệng. (Cổ Phương)
18/ Trị Các Chứng “ Thổ Huyết”
Dùng lá tía tô, rửa sạch, nấu kỹ, lọc lấy nước cốt cộ thành cao. Lấy đậu đỏ, sao chín, tán nhỏ, luyện với cao trên vê thành những viên nhỏ. Mỗi lần uống từ 30 – 50 viên với rượu. Uống thường xuyên thì kiến hiệu. (Nam Dược Thần Hiệu)
19/ Trị Chứng “Táo Bón Ở Người Già, Người Suy – Yếu”
Lấy nửa vốc Hạt tía tô, nửa vốc hột me, trộn chung giã nhỏ, đổ 1 bát nước vào khuấy đều, lắng chắt lấy nước cốt, cho gạo trắng nấu thành cháo, ăn rất hay. (Nam Dược Thần Hiệu)
20/ Trị Chứng “Đàm Ẩm”
Người già thường hay động khí, khí lên thì đàm lên khí hạ thì đàm xuống, khí lưu thì đàm lưu hành, khí ngưng trệ thì đàm ngưng trệ. Để chữa trị chứng này, dùng hạt tía tô, hạt ca, hạt cải bẹ, mỗi vị 3 đồng cân, cho vào nước, lựa lấy những hạt chìm vì đó là hạt chắc, đem sát qua, thêm vào 5 lát gừng, sắc uống thì khỏi. (Nam Dược Thần Hiệu)